Hàng hóa TG sáng 5/4: Giá biến động sau khi Trung Quốc áp thuế đáp trả Mỹ

Hàng hóa TG sáng 5/4: Giá biến động sau khi Trung Quốc áp thuế đáp trả Mỹ

 Phiên giao dịch 4/4 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 5/4 giờ VN), giá dầu, đường và sắt thép giảm trong khi vàng và cà phê tăng.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Trung Quốc thông báo áp thuế lên hàng loạt hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ để trả đũa.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm 14 US cent hay 0,22% xuống 63,37 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giảm nhẹ 10 US cent (0,15%) xuống 68,02 USD/thùng. Trong phiên, có lúc giá dầu Brent xuống 66,69 USD/thùng, còn dầu WTI xuống 62,06 USD/thùng, mức thấp nhất trong hai tuần.
Trung Quốc – quốc gia nhập khẩu các loại nguyên liệu thô lớn nhất thế giới – đã đáp trả lại kế hoạch của chính quyền Tổng thống Donald Trump áp thuế đối với lượng hàng nhập khẩu có giá trị 50 tỷ USD từ nước này bằng việc áp mức thuế bổ sung 25% đối với 106 mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, trong đó có đậu tương, ô tô và hóa chất.
Thời điểm mức thuế suất mới có tổng trị giá tương đương này có hiệu lực sẽ phụ thuộc vào thời điểm Mỹ áp mức thuế mới đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, xu hướng giá giảm được hạn chế bởi số liệu cho thấy lượng dầu dự trữ của Mỹ bất ngờ giảm xuống.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho hay dự trữ dầu của Mỹ đã giảm 4,6 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược với dự đoán tăng 246.000 thùng mà giới phân tích đưa ra trước đó. Ngoài ra, giá dầu cũng được hỗ trợ bởi việc thị trường chứng khoán Mỹ hồi phục.
Sản lượng dầu của OPEC tháng 3 xuống mức thấp nhất trong 11 tháng do sự sụt giảm xuất khẩu của Angola, gián đoạn tại Libya và sản lượng giảm tiếp tại Venezuela. OPEC đã bơm 32,19 triệu thùng/ngày trong tháng trước, giảm 90.000 thùng/ngày so với tháng 2. Tổng sản lượng của OPEC trong tháng 3 thấp nhất kể từ tháng 4/2017.
Về triển vọng giá, chuyên gia kinh tế tại Capital Economics, ông Thomas Pughs, nhận định giá dầu sẽ giảm dần vào năm tới, sau khi thỏa thuận cắt giảm sản lượng hết hạn vào cuối năm 2018.
“Việc OPEC không đưa ra kế hoạch cụ thể đối với sản lượng khai thác trong các cuộc họp có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, dẫn đến giá dầu giảm mạnh hơn dự báo”, ông Pughs nhận định.
Tương lai của thỏa thuận cắt giảm sản lượng vẫn còn rất mông lung. Saudi Arabia- quốc gia được xem là lãnh đạo không chính thức của OPEC- luôn cho rằng việc tiếp tục hạn chế sản lượng là rất cần thiết.
Giá dầu tăng mạnh hơn kỳ vọng kể từ đầu năm đến nay. Đỉnh điểm, giá dầu Brent chạm mức 71 USD/thùng hồi tháng 1. Việc giá dầu tăng sẽ kích thích các quốc gia ngoài OPEC, đặc biệt là Mỹ tăng sản lượng. Đồng nghĩa, OPEC sẽ để mất mất thị phần vào tay nước khác.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mặc dù giảm khỏi mức cao trong của một tuần trong bối cảnh đồng USD giảm giá so với đồng yen trong lúc các thị trường chứng khoán mất điểm khi căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng.
Giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.335,66 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 6/2018 cũng tăng 0,2% lên khép phiên ở mức 1.340,20 USD/ounce. Trong phiên có lúc giá lên 1.348,06 USD/ounce, mức cao trong một tuần.
Nhu cầu đối với tài sản rủi ro giảm đi khiến đồng USD mất giá, làm vàng rẻ hơn cho các nhà đầu tư sử dụng đồng tiền khác và sức hấp dẫn của vàng ngày càng tăng như một tài sản trú ẩn an toàn trong thời điểm bất ổn địa chính trị và kinh tế.
Tuy nhiên đà tăng giá vàng bị hạn chế do những dấu hiệu tăng trưởng kinh tế toàn cầu ổn định, một loạt các cuộc khảo sát sản xuất ở nhiều khu vực cho thấy hoạt động chậm lại nhưng vẫn ở mức cao.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,6% xuống 16,27 USD/ounce sau khi tụt xuống mức thấp trong sáu ngày là 16,23 USD/ounce; giá bạch kim hạ 0,9% xuống 915,5 USD/ounce, sau khi trước đó đã rơi xuống 908 USD/ounce, thấp nhất kể từ tháng 12/2017; giá palađi giảm 0,7% xuống 922,7 USD/ounce.
Trên thị trường sắt thép, giá thép thanh kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 1,1% xuống 3.318 NDT (533,54 USD)/tấn. Dự trữ thép thanh sử dụng trong xây dựng kết thúc tuần trước ở mức 9,1 triệu tấn, sau khi đạt mức cao nhất trong 5 năm hồi tháng 3 với gần 10 triệu tấn. Các thương nhân dự kiến nhu cầu thép của Trung Quốc phục hồi từ tháng này cùng với hoạt động xây dựng. Giá quặng sắt kỳ hạn của Trung Quốc giảm phiên thứ hai liên tiếp do lo lắng về kho dự trữ ngày càng tăng và nhu cầu từ các nhà máy thép giảm trong khi có tin tức gián đoạn sản xuất tại Brazil, một trong số các nhà sản xuất lớn nhất thế giới. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 4,2% xuống 438,5 NDT (69,61 USD)/tấn.
Theo số liệu hàng tuần của công ty tư vấn SteelHome, dự trữ nguyên liệu thô để sản xuất thép tại các cảng của Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục 161,68 triệu tấn tính đến ngày 31/3, tăng 9% trong năm nay.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 5 tăng 0,3 US cent tương đương 0,26% lên 1,169 USD/lb, hồi phục từ mức thấp nhất 9 tháng lúc đầu phiên là 1,1595 USD.
Robusta tăng 16 USD tương đương 0,9% lên 1.755 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê quốc tế (ICO) đã hạ dự báo về sản lượng arabica, và cũng điều chỉnh dự báo về tổng cung cà phê toàn cầu niên vụ 2017/18 thành dư thừa, so với dự báo trước đó là thiếu hụt.
Đối với mặt hàng đường, giá đường thô giao tháng 5 giảm 0,2 US cent tương đương 1,6% xuống 12,27 US cent/lb, còn đường trắng giảm 3,5 USD tương đương 1% xuống 351,20 USD/tấn. Sản lượng đường Ấn Độ dự báo sẽ tăng mạnh trong nửa đầu năm marketing 2017/18.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng vào lúc đầu phiên nhưng quay đầu giảm vào cuối phiên, là phiên thứ ba liên tiếp giảm trong bối cảnh lo ngại căng thẳng thương mại Mỹ – Trung leo thang có thể gây thiệt hại cho kinh tế toàn cầu. Hợp đồng giao tháng 9 trên sàn giao dịch TOCOM giảm 0,5 JPY xuống 179,6 JPY (1,7 USD)/kg, trong phiên có lúc giá đã tăng lên 180,9 JPY/kg; hợp đồng cùng kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 130 NDT xuống 11.340 NDT (1.800 USD)/tấn.
Trung Quốc sẽ đưa ra các biện pháp đáp trả tương tự với danh sách thuế các mặt hàng nhập khẩu của Mỹ gồm đậu tương, ô tô, máy bay và hóa chất, sau khi Washington công bố danh sách 1.300 sản phẩm Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ phải chịu thuế lên tới tổng trị giá 50 tỷ USD.
Giá sữa toàn cầu giảm lần thứ tư liên tiếp trong phiên đấu giá diễn ra hai tuần một lần ngày 4/4 do sản lượng tại New Zealand có những dấu hiệu phục hồi từ mức thấp trước đó. Quốc gia xuất khẩu sữa lớn nhất thế giới này bị hạn chế nguồn cung cuối năm ngoái bởi thời tiết khô bất thường. Tập đoàn sữa Fonterra Co-operative Group Ltd đã báo cáo sản lượng tại New Zealand giảm 2% so với mức giảm 5% trong tháng 1. Chỉ số giá sữa bột toàn cầu giảm 0,6%, với giá bán trung bình 3.477 USD/tấn trong phiên đấu giá này.
Tổng cộng 17.222 tấn sữa đã được bán tại phiên đấu giá, giảm 7,6% so với phiên trước. Ngành sữa đã tạo ra hơn 7% tổng sản phẩm quốc nội của New Zealand.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa ĐVT Giá +/- +/- (%)
Dầu thô WTI USD/thùng 63,37 -0,14 -0,22%
Dầu Brent USD/thùng 68,82 -0,10 -0,15%
Dầu thô TOCOM JPY/kl 42.060,00 +410,00 +0,98%
Khí thiên nhiên USD/mBtu 2,71 -0,01 -0,40%
Xăng RBOB FUT US cent/gallon 198,57 +0,89 +0,45%
Dầu đốt US cent/gallon 198,41 +0,68 +0,34%
Dầu khí USD/tấn 609,25 +2,50 +0,41%
Dầu lửa TOCOM JPY/kl 58.810,00 +320,00 +0,55%
Vàng New York USD/ounce 1.335,20 +5,00 +0,37%
Vàng TOCOM JPY/g 4.564,00 +3,00 +0,07%
Bạc New York USD/ounce 16,27 +0,01 +0,07%
Bạc TOCOM JPY/g 55,90 -0,40 -0,71%
Bạch kim giao ngay USD/ounce 915,08 -2,29 -0,25%
Palladium giao ngay USD/ounce 929,49 -0,45 -0,05%
Đồng New York US cent/lb 301,95 +0,90 +0,30%
Đồng LME 3 tháng USD/tấn 6.724,00 -72,00 -1,06%
Nhôm LME 3 tháng USD/tấn 1.991,00 +13,00 +0,66%
Kẽm LME 3 tháng USD/tấn 3.258,00 -22,00 -0,67%
Thiếc LME 3 tháng USD/tấn 20.900,00 -300,00 -1,42%
Ngô US cent/bushel 381,00 0,00 0,00%
Lúa mì CBOT US cent/bushel 459,00 +3,25 +0,71%
Lúa mạch US cent/bushel 230,50 +0,50 +0,22%
Gạo thô USD/cwt 12,39 -0,04 -0,28%
Đậu tương US cent/bushel 1.014,50 -0,75 -0,07%
Khô đậu tương USD/tấn 380,00 -1,80 -0,47%
Dầu đậu tương US cent/lb 31,73 +0,05 +0,16%
Hạt cải WCE CAD/tấn 527,20 -1,20 -0,23%
Cacao Mỹ USD/tấn 2.475,00 -23,00 -0,92%
Cà phê Mỹ US cent/lb 116,90 +0,30 +0,26%
Đường thô US cent/lb 12,27 -0,20 -1,60%
Nước cam cô đặc đông lạnh US cent/lb 138,85 +0,50 +0,36%
Bông US cent/lb 79,81 +0,17 +0,21%
Lông cừu (SFE) US cent/kg
Gỗ xẻ USD/1000 board feet 526,40 +10,00 +1,94%
Cao su TOCOM JPY/kg 178,70 -0,90 -0,50%
Ethanol CME USD/gallon 1,40 0,00 0,00%